Huyền thoại về bùa yêu xứ mường

0
11

Tôi đã từng nghe người ta kể nhiều về phép thuật nèm và bùa yêu xứ mường , chài (bùa mê, ngải lú) thần bí của những ông thầy mo Mán, Mường trên rừng xanh núi đỏ. Rằng chỉ với một dúm muối, một đôi đũa, một nhành cây…, họ có thể “bó” cho đôi vợ chồng nọ đang đứng trước nguy cơ tan vỡ trở nên quấn quyện, khăng khít như thuở ban đầu. Có thể chia rẽ cặp tình nhân đang say nhau như điếu đổ kia bỗng chốc trở nên hờ hững, lạnh lùng để rồi … chia ly đôi ngả. Thậm chí, chỉ với một chiếc kim, một mảnh sắt quấn sợi chỉ ngũ sắc, họ có thể giết chết kẻ thù địch bằng những lời chú bí hiểm… Để “bảo lãnh” cho tính xác thực của những câu chuyện rùng rợn ấy, có người còn lôi ra những lời thề rất độc địa khiến kẻ tò mò, đa nghi Tào Tháo là tôi cứ nhấp nhổm không yên. Và rồi, mặc cho cơn áp thấp nhiệt đới hoành hành, tôi vẫn xé gió, đội mưa lên xứ Mường Thanh Sơn (Phú Thọ) quyết vén bức màn tâm linh kỳ bí này, cách luyện bùa yêu chuẩn nhất.

KỲ I: NHỮNG CÂU CHUYỆN HUYỀN HOẶC VÀ HÀNH TRÌNH ĐI TÌM LÁ BÙA YÊU

Buổi trưa hôm ấy, tôi và nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, người đẫm mình mấy mươi năm trong nền văn hoá xứ Mường Phú Thọ, dùng cơm trưa ở nhà khách UBND huyện Thanh Sơn. Anh Tạ Văn Ngọ, trưởng phòng văn hoá huyện tay rót rượu mời khách, miệng xởi lởi: “Chuyện bùa mê ngải lú tôi cũng nghe nhiều rồi, thực hư thế nào, tôi chưa dám kết luận. Riêng chuyện nèm chữa bệnh cho người và gia súc, nhất là nèm chữa bệnh trâu bò bị dòi bọ, nèm chữa hóc, nèm trừ sâu hại hoa màu… thì tôi tin”. Rồi anh kể: cách đây vài năm, một gia đình cùng xóm với anh có con trâu bị bệnh dòi, chữa bao nhiêu thuốc cũng không khỏi. Chị vợ bèn đến nhà ông thầy mo trong làng nhờ chữa bằng bùa chú. Ông thầy mo ngồi xếp bằng, thủng thẳng hỏi: trâu bị bệnh lâu chưa? loét chỗ nào? rồi bảo “khổ chủ” về đi, về mà nhặt dòi bọ. Chị nọ bán tin bán nghi, chân thấp chân cao chạy. Về đến nhà thì eo ôi, dòi từ vết loét ở cổ trâu nhung nhúc chui ra hàng vốc. Vài ngày sau, lành tịt. Hai vợ chồng sướng rơn, vội vàng sắm sanh chút lễ mọn đến tạ ơn thầy. Chuyện nữa: anh Hoàng Bá Tân, con của “nhà bùa chú” nổi tiếng Hoàng Bá Huân ở xã Tân Phú có những bài nèm chữa một số bệnh hiểm nghèo. Đứt tay chảy máu, nhọt sưng mưng mủ, anh chỉ cầm con dao cùn hà hơi niệm chú rồi chí chí vào đó, vài ngày nhọt to như cái chén xẹp ngay. Mới đây, anh niệm thần chú chữa khỏi bệnh viêm gan nặng cho một người ở làng Hoàng Xá. Nhờ đó, anh được mời đi báo cáo điển hình về cách chữa bệnh bằng phương pháp dân gian ở Hội nghị y học dân tộc tỉnh Phú Thọ.

Bùa yêu xứ mường

Nhà văn gầy gò Nguyễn Hữu Nhàn thì nhỏ nhẻ góp một chuyện khá rùng rợn. Chuyện rằng: ông có một người bạn đồng hương quê Tứ Xã (Lâm Thao) dạy học nhiều năm ở xã Lai Đồng (cách Tân Phú 30 km). Một lần chứng kiến một anh Mường có vợ lâm bệnh trọng chết. Thay vì lo ma chay, anh này cứ dí mũi xuống xác vợ… hít lấy hít để. Hỏi dân làng mới biết, anh này vì xấu xí, lại nghèo nên phải nhờ người nèm mới lấy được vợ. Do bỏ bùa mê thuốc lú để lấy cưỡng bức nên khi một người chết thì người kia sẽ phải chết theo do chưa biết hoặc chưa kịp đón thầy đến “ké nèm” (giải bùa chú). Sau này, ông được cụ Hoàng Đức Sin, 80 tuổi, người Mường xã Tân Minh giảng giải thêm rằng: Nếu nèm để lấy vợ mà sống yêu thương nhau thì không sao. Còn nếu nèm để cưỡng bức nhau sẽ bị quả báo tức thì. Vì vậy, khi một người đột tử thì người kia phải hít hơi tử thi cho đến khi thầy đến cởi cho mới thoát.

Cuộc đời cụ Sin là cả một pho huyền sử về phép thuật nèm chài. Cụ vốn là thầy cúng nổi tiếng cả vùng, đã từng được cấp sắc chánh thượng thừa, cấp bậc cao nhất trong nghề thầy cúng. Muốn lên được cấp bậc này phải qua các sắc tiểu thừa, trung thừa, đại thượng thừa và trung thượng thừa. Là người ăn to nói lớn, cụ cứ choang choang kể: “Ngày xưa, bác là cán bộ xã, làm chủ nhiệm HTX nhiều năm đấy. Vì làm cán bộ, không được đi cúng, không được nói đến chài, nèm nên có lão giở trò ma nèm vợ bác, khiến bà ấy bỏ chồng, bỏ con đi theo hắn. Giận quá, bác gọi hắn đến nhà vãi (bố mẹ vợ) vỗ ngực, chỉ mặt hắn: “14 tuổi tao đã là thầy cúng. Mọi pháp thuật người Mường tao không lạ. Nếu ngươi không đón người ké nèm để tao phải ra tay thì chớ có trách…” Kẻ cướp vợ mặt xanh đít nhái quỳ sụp xuống, lạy cụ như tế sao. Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn hỏi: “Thế cụ có giận cụ bà không?” Cụ Sin xua tay cười hớ hớ: “Ô không! Đấy là nó nèm cho mê mẩn mà theo nó thôi. Khi bà ấy về, khóc lóc xin tha thứ, bác không mắng nửa lời, vẫn sống tốt với nhau đến tận bây giờ đấy”. Nhà văn lại hỏi: “Người Mường xưa có thể nèm cho trai gái yêu nhau. Vậy có thể nèm cho nhân tình nhân ngãi, bồ bịch bất chính chán nhau không hả cụ?”. “Được chứ!”. Cụ Sin nói rồi vỗ vỗ vào vai nhà văn: “Hôm nào đến đây bác dạy cho bài ké nèm mà về xuôi cứu nhân độ thế cho vợ chồng không bỏ nhau”.

Tôi ngồi nghe chuyện mà người cứ mê đi. Càng nghe ruột càng nóng như lửa đốt, những muốn có phép thần để bay ngay lên xứ Mường. Bữa rượu vừa tan, tôi vội vã lên xe phóng thẳng. Chặng đường từ thị trấn Thanh Sơn (Phố Vàng) lên Thu Cúc dài chừng 30 km bóng nhoáng, phẳng lỳ. Tay vít ga, mông uốn lượn theo những đường cong mềm mại, tôi cứ mắt tròn mắt dẹt. Sao đường miền núi lại “ngon” thế? Sao tiếng là vùng sâu vùng xa nhất của huyện Thanh Sơn tưởng là xác xơ, tiêu điều mà lắm nhà lô cốt bê tông thế, trên nóc lại còn chềnh ễnh con ăng-ten chảo pa-ra-bôn giá đến vài triệu đồng. Các quán cà phê giải khát mọc san sát. Thi thoảng lại bắt gặp biển hiệu “karaoke” to đoành. Thế mới oách! Thì ra cái “anh” văn minh đã tràn cả lên rừng xanh núi đỏ rồi.

Đến địa phận xã Tân Phú, tôi tạt vào một quán bia hơi bên đường. Cô chủ quán ngực thây lẩy, mông ưỡn ẹo đon đả chạy ra. Trong quán, một tốp thanh niên Mường chừng chục cô cậu đang tíu tít cụng ly, đùa cười rôm rả. Chỉ mất vài câu đưa đẩy, tôi đã trở thành khách quý của họ. Biết tôi có ý định tìm hiểu phép thuật nèm chài, Thuỷ, cô gái Mường có nước da đen giòn với nụ cười hoa tươi tắn lúng liếng bảo: “Anh đến đúng ổ bùa ngải của người Mường chúng em rồi đấy. Đẹp giai thế này, không sợ bọn em bỏ bùa mê cho mất đường về quê mẹ sao anh?”. Tiếng cười ré lên. Cậu thanh niên Mường tên Khoẻ, xã Mỹ Thuận, phô hàm răng bàn cuốc gắt gỏng: “Chúng mày có im đi không! Cứ đùa để anh ấy sợ”.

Quay lại phía tôi, Khoẻ trùng giọng: “Nèm chài của người Mường chúng em là có thật, lưu truyền từ đời xửa đời xưa. Mẹ em cũng biết nèm đấy, nhưng cụ chẳng làm bao giờ cả. Cụ bảo, làm cái đó thất đức lắm. Bữa trước, có mấy anh nhà báo dưới Hà Nội lên đây tìm hiểu viết bài. Hỏi han linh tinh vài câu rồi về phịa cả một trang báo dài. Toàn bịa đặt, xuyên tạc cả. Lại còn riết róng tố cáo người Mường chúng em loè bịp, chặt chém khách moi tiền, rồi thì mê tín dị đoan khiến dân tình bất bình lắm. Nếu anh thực sự muốn tìm hiểu phép thuật thần bí này, em sẽ đưa anh đi”. Thấy tôi còn bán tin bán nghi, Khoẻ căn vặn: “Anh chưa tin phải không? Thế em hỏi anh nhớ, đôi vợ chồng nọ vừa chiều qua đánh nhau sứt đầu mẻ trán. Vợ tru tréo chửi chồng, chồng vác dao rượt đuổi vợ, tưởng chém giết nhau đến nơi. Đùng một cái, sáng hôm sau, lại thấy cô vợ hớn hở quay về, ríu rít anh anh, em em như chưa từng có chuyện đánh đấm. Thế không nèm thì là gì? Hay như cô S. Thị Nở ở cầu Mịn kia kìa. Xấu người, lại xấu cả nết. Lấy chồng, đẻ được 2 đứa con gái, chồng chán, nó bỏ.

Thế mà anh Tuấn, chủ thầu xây dựng dưới Hà Nội, đẹp trai, lắm tiền, vợ đẹp như tiên, lại chết mê chết mệt S. Hai đứa ăn ở với nhau như vợ chồng. Năm ngoái, lại còn bỏ tiền xây dựng cho S. một ngôi nhà 2 tầng thênh thếnh ở mặt đường. Chuyện này, cả huyện Thanh Sơn biết. Em hỏi anh, thế không phải nèm thì là gì?”. Tôi gật gù lia lịa. Khoẻ hứng chí bảo: “Kể tên những người biết nèm ở đây thì đầy dẫy. Này nhé: Bà Nhàn ở xóm Bưng (xã Minh Đài), thầy mo Thục, thầy Cửu, thầy Thắng, bà Phúc, bà Chối, bà Miến ở Mỹ Thuận, thầy Hà Văn Bày ở thôn Mai Thịnh (xã Địch Quả), ông Hà Văn Bằng, ông Hoàng Bá Huân ở Tân Phú… Ôi dào! Nhiều lắm! Nhưng theo em, nổi tiếng nhất vẫn là thầy mo Thục. Thầy cao tay lắm. Ngày nào cũng có người đón thầy đi cúng giải hạn, cúng đàn chay phá ngục cho những nhà chết trùng tang, làm bùa ghét, bùa yêu… Đùi gà gia chủ lễ tạ, cả nhà thầy ăn chẳng hết. Hôm nọ, vợ chồng anh Tân ở Mỹ Thuận có đôi lợn nái xổ chuồng, táo tác đi tìm cả ngày chẳng thấy. Bí quá mới đến nhờ thầy Thục. Ông Thục nhận lời, thắp hương, khấn vái rồi đi bộ lên trên dãy núi Cụt trước mặt anh kia kìa. Ông ấy lầm rầm đọc thần chú rồi hú lên mấy tiếng. Ngay chiều hôm ấy, đôi lợn ở đâu ủn ỉn mò về. Chuyện này, cả làng đồn rầm rĩ, em không nói sai”. Tôi sốt sắng hỏi đường đến nhà ông Thục để xin lá bùa yêu. Khoẻ bảo: “Anh là người lạ, đến nhà, thầy không làm đâu. Để em dẫn đường cho”. Tôi sướng rơn, luýnh quýnh thế nào bỏ quên cả mũ bảo hiểm ở quán.

Nhà thầy mo Thục nằm chon von trên lưng chừng đồi. Trời mưa, đường trơn nhầy nhụa, xe cài số 1, ì ạch mãi mới lên đến nơi. Căn nhà gỗ, lợp mái gianh, rộng thênh thếnh như cái đình, ồn ào tiếng nói cười. Ngày mai, cậu con út của thầy vào Nam lập nghiệp, gia đình làm bữa liên hoan. Thầy không có nhà. Vợ thầy bảo: Thầy ra chợ thị trấn mua “canh” (thức ăn). Tôi ngồi chờ. Anh con trai cả tủm tỉm: “Chú đến đây là đúng địa chỉ rồi. Yên tâm đi. Bất cứ chuyện gì cần, thầy cũng có thể giúp chú được”. Rồi anh kể, có một cậu thanh niên ở tận Sơn Tây, vợ bỏ đi theo giai, lên khóc lóc van vỉ nhờ thầy cứu giúp. Thầy nhận lời, làm cho một lá bùa. Ba ngày sau, cô vợ trở về. Anh chàng mừng rơn. Cảm tạ tấm lòng của thầy, anh đã biếu thầy 3 triệu. Tháng nào anh ta cũng lên đây một lần để thầy yểm bùa cho tình cảm vợ chồng thêm bền chặt. Mới đây, có một bà tận Gia Lai – KonTum lặn lội ra đây. Chồng làm giám đốc, bồ bịch lăng nhăng. Bà vợ đánh ghen, chửi bới, rồi khóc lóc, nỉ non… đủ hình đủ kiểu mà anh chồng vẫn chứng nào tật ấy. Nhờ bùa của thầy tôi, cô ấy đã giành lại được chồng. Hôm kia, cô ấy gửi biếu thầy tôi 5 triệu nhưng thầy chỉ nhận 3 triệu thôi. Cụ cao tay lắm”.

Khoảng 5 giờ chiều, thầy Thục mới về. áo trắng, quần âu, trông thầy phong độ lắm so với cái tuổi thất thập. Bắn một điếu thuốc lào, lim dim nhả khói, thầy hất hàm: “Anh từ đâu tới? Có việc gì?”. Tôi liền giả bộ rầu rĩ: “Con là thầy giáo dạy văn dưới Hà Nội. Vợ con đang lăng nhăng với người khác. Con muốn xin thầy một lá bùa để kéo vợ con về”. Thầy cười khùng khục: “Anh nói thế nào ấy chứ. Trông anh đẹp giai lồng lộng, lại hào hoa thế kia, vợ bỏ theo giai sao được”. Tôi rơm rớm nước mắt, van vỉ: “Bẩm thầy! Con đâu dám nói dối. Xin thầy mau ra tay giúp con, thầy cứu con không thì con chết mất”. Miệng nói, tay rút tờ năm chục, tôi dúi vào tuí thầy. Bộ mặt tôi lúc đó trông chắc thảm thương lắm nên thầy hạ giọng: “Thôi được rồi, thầy sẽ giúp. Bây giờ, anh ghi tên tuổi của anh và vợ anh vào tờ giấy này. Nhớ phải ghi thật chính xác, nếu không bùa sẽ mất linh”. Ngừng lời, chiêu một ngụm nước, thầy chép miệng: “Gớm! Các cô cậu dưới ấy bây giờ no lưng ấm cật nên giậm giựt chân tay. Ngoại tình, bồ bịch khiếp quá. Chẳng riêng gì anh đâu. ối người làm giám đốc, vụ trưởng mà vẫn cứ bị vợ cắm sừng cho như chơi ấy chứ. Đấy, vừa chiều qua, một cô sồn sồn tô son trát phấn, người núc nỉu những nhẫn, dây chuyền đến cầu xin tôi làm nèm cho… 4 ông bồ không ông nào được rời ra. Dâm đãng đến thế là cùng”. Đang cặm cụi viết, tôi cũng phải bật cười cùng tiếng ồ lên của mấy chục con mắt đang tò mò nhìn tôi từ nãy đến giờ.

Đón nhận tờ giấy trên tay tôi, thầy Thục khẽ khàng đặt lên ban thờ. Rót đầy ba chén nước, thắp ba nén nhang, thầy phủ phục xuống phản lầm rầm khấn. Gieo quẻ xong, thầy sai bà Thục ra vườn hái mấy cái lá và xúc bát muối lên cho thầy. Quay mặt về phía ban thờ, thầy bắt đầu niệm chú. Cả nhà im phăng phắc. Tôi cố tập trung cũng không nghe được gì, chỉ thấy môi thầy mấp máy như máy khâu. Khuôn mặt thầy đỏ bừng như lên đồng. Niệm xong, thầy đưa nhúm lá và bát muối lên sát miệng, hà hơi 3 lần vào đó. Đưa tôi “bùa yêu” đã được gói ghém cẩn thận, thầy dặn: “Nhúm lá này anh về chia làm đôi. Một để trong gối anh, một để gối vợ. Còn gói muối, hàng ngày nấu canh, anh cứ cho vào, cả nhà cùng ăn. Đảm bảo chỉ một tuần sau, vợ anh sẽ hết tơ tưởng lăng nhăng đến người khác”. Tôi cúi đầu cảm tạ và cáo từ ra về. Trời nhập nhoạng tối. Biết tôi lên xóm Dùng, xã Thạch Kiệt, cách Mỹ Thuận chừng 7km, anh con cả thầy Thục gàn: “Chú đừng đi đến đấy. Đường xá xa xôi, cách trở. Chú cứ nghỉ lại đây với anh, sáng mai đi cũng chưa muộn”. Cả nhà thầy Thục xúm lại mời nhưng tôi vẫn kiên quyết đi. Bởi ở Thạch Kiệt, có một người mà như nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã căn dặn tôi hồi trưa: “Muốn biết tường tận về nèm chài, anh phải gặp cho được ông Hoàng Văn Nhẽo, xóm Dùng, xã Thạch Kiệt. Chỉ có ông ấy mới có thể giúp anh vén bức màn tâm linh kỳ bí này”.

KỲ II: DIỆN KIẾN “NHÀ BÙA CHÚ” CÓ … 1O VỢ VÀ NHỮNG KHÁM PHÁ THÚ VỊ VỀ THUẬT NÉM CHÀI

Quả thật, chỉ đến khi rung đùi ngồi uống rượu nghe “nhà bùa chú” Hoàng Văn Nhẽo kể chuyện bùa mê ngải lú, tôi mới hoàn hồn. Chả là đường đến xóm Dùng phải qua một con suối. Mùa mưa, nước đầy, suối sâu. Xe vừa lao xuống đã kêu đánh “ục”. Máy tắt ngỏm. Trời tối bịt bùng. Sương giăng tứ phía. Một mình giữa núi đồi heo hút. Tôi sởn da gà. Nghiến răng, oằn lưng đẩy xe vượt suối. Một nỗi sợ hãi mơ hồ. Nhỡ ông Nhẽo không có nhà, lại đất khách quê người, biết ở đâu? Mò mẫm mãi cũng đến được nơi cần đến. Cất tiếng gọi lạc giọng, mới nghe lời vọng ra ồm ồm: “Ai hỏi gì tôi đấy?”. Tôi thở phào, chợt thấy thấm thía đến thế câu nói của cổ nhân: “Mừng như chết đuối vớ được cọc”.

Nghe tôi giới thiệu là người thân của nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, ông Nhẽo vui lắm. Tay rót rượu mời khách, ông nói cười rổn rảng: “Anh cứ ở đây với bác vài hôm, không ngại gì đâu. Bác ở có một mình thôi mà”. Tôi đưa mắt nhìn. Căn nhà sàn rộng thênh thếnh, lạnh lẽo như cái đình bỏ hoang. Đồ đạc chẳng có gì. Tài sản đáng giá nhất chỉ là cái tủ buýp-phê mốc lở và chiếc đài cát-xét Trung Quốc bị mất nắp. Tôi hỏi: “Thế bác gái cháu đâu ạ?”. Ông Nhẽo cười buồn: “Chết hết, bỏ hết đi cả rồi. Ngày xưa, bác nèm cho nhiều người đàn bà đẹp mê mình. Nèm cả vợ người ta bỏ chồng theo mình. Vì thế, về già, trời quả báo, phải ở một mình thế này đấy”. Được biết, ông Nhẽo đã dùng thuật nèm chài để lấy những… 10 vợ. Sau này, người thì chết, người thì bỏ ông mà đi. Ông bảo: “Dù có tài nèm đến đâu cũng không tránh khỏi cái hoạ cô đơn về già”. Vì thế, giờ đây, ông chỉ làm phúc nèm cho các cặp vợ chồng yêu thương nhau. Nèm cho đàn ông bỏ gái, đàn bà bỏ giai mà về đoàn tụ với vợ với chồng. Lụi cụi mở nắp chiếc hòm cũ kỹ để ở góc nhà, ông Nhẽo đưa cho tôi xem một tập vở dày cộm ghi chi chít tên tuổi, địa chỉ những người vợ bị phụ bạc, những ông chồng bị cắm sừng đến nhờ ông nèm giúp. Tôi lần giở từng trang. Dễ có đến cả nghìn địa chỉ. Thôi thì đủ cả “4 phương trời mười phương đất”. Gần thì Phú Thọ, Sơn La, Hà Nội. Xa thì Hà Tây, Hà Giang, Thanh Hoá, Nghệ An… Có người ở tận tít tắp trong Bảo Lộc, Lâm Đồng… Xa quá thì đành gửi ảnh “một nửa của mình” và cả ảnh của kẻ tranh vợ cướp chồng để ông Nhẽo làm nèm chia cắt.

Ông Nhẽo bảo: “Phép thuật nèm chài của người Mường có từ ngàn năm nay rồi nên phong phú lắm. Bản thân bác, tu luyện gần trọn một đời, cũng chỉ biết làm có mấy chục bài. Phép tắc, lề lối thì vô cùng chặt chẽ. Khi nèm, phải đọc thần chú liền một hơi cho hết bài. Nếu bị đứt đoạn thì phải nghỉ lấy hơi đọc lại. Đọc thầm, tuyệt đối không cho ai nghe thấy, không cho lưỡi va vào răng. Niệm đủ 3 lần mới hà hơi vào gạo, muối rồi bí mật bỏ vào nồi cơm, canh để ăn vào, tự khắc sẽ yêu thương nhau. Nếu muốn bồ bịch bỏ nhau thì niệm thần chú vào một số hạt thóc rồi quải cho gà nhà người ấy ăn, tự khắc hai người sẽ chán nhau”. Trò chuyện với ông, tôi mới biết, phép nèm vô cùng thần bí, thần bí đến mức có nhiều chi tiết không thể lý giải bằng tư duy lô gíc thông thường. Ví như: Vì sao phép màu muốn truyền dạy người khác phải chọn đúng ngày giờ? Mỗi năm chỉ có vài ngày truyền dạy được? Có những bài nèm chỉ làm được vào lúc chập tối. Nèm xong phải quay mặt ra hướng Tây mà thở. Vì sao khi vào mùa ếch nhái kêu thì có truyền dạy đúng bài bản cũng không thể “khất” (không thực hiện nổi)? Rồi ông say sưa kể về cách nèm cho chó vẫy đuôi để đến nơi có chó dữ, chúng sẽ mừng như mừng chủ. Rồi cách nèm nương bùa, nèm để không một người ngoài nào có thể lấy hoa màu nông sản mình trồng trên nương. Tôi mỉm cười. Thảo nào, lúc ngồi uống rượu, thấy tôi nhấp nhổm ngó nghiêng con Wave để dưới gầm nhà sàn, ông Nhẽo tủm tỉm: “Anh cứ yên tâm, cứ ngồi uống cho thoả sức. Đố ai dám sờ mó con xe của anh. Nếu mất, mai bác đền”.

Nhà bùa chú Hoàng Văn Nhẽo đã đồng ý cho tôi ghi 5 bài thần chú nèm yêu của ông với điều kiện, tôi không được bật máy ghi âm. Đó là bài: Nèm vào khăn mặt cho vợ chồng thương yêu nhau. Nèm dò lá thương yêu (Niệm thần chú vào cành lá rồi thả ra đường. Người mình yêu dẫm phải sẽ tự nguyện theo mình). Nèm phô nống (Niệm thần chú vào bàn tay rồi vỗ vào vai đối phương, tự khắc người ấy sẽ mê mình). Nèm lá phai nhạt chán ghét (Dùng cành lá nèm vào làm cho tình nhân, bồ bịch bỏ nhau). Và bài liếc mắt tìm hiểu (Đọc thần chú xong, liếc mắt đưa tình làm cho đối phương mê mẩn).

Hỏi về phép thuật chài, ông Nhẽo giãy nảy: “Thất đức! Thất đức! Không nên truyền cho nhau cái thứ hại người ấy. Vì chài nó nguy hiểm lắm. Mấy làng mới có một ma chài. Dân Mường có câu: “Trong chài ngoài mõ”. Người Kinh xa lánh mõ thế nào thì người Mường xa lánh chài thế ấy. Người ta hay dùng sắt để chài. Niệm thần chú vào sắt rồi quệt vào cây mía, quả cam, vại nước. Người bị hại ăn uống những thức ấy, tự khắc trong bụng có sắt thôi”. Về chuyện chài, tôi đã được nghe ông Vũ Đình Hiền, nguyên cán bộ Sở văn hoá thông tin tỉnh Vĩnh Phú (cũ) kể: Năm 1963, ông được dự một lớp học “Chống mê tín dị đoan để đưa miền núi tiến kịp miền xuôi” do huyện uỷ Thanh Sơn tổ chức, ông Cao Đức Chính, thường vụ huyện uỷ phụ trách. Đợt ấy, huyện phát động phong trào nhân dân tố giác những người biết chài, nèm để bắt đến lớp học tập, cải tạo. Có một người đàn bà ở xóm Đồng Cỏ, xã Thục Luyện đã chài, hại một anh thanh niên Mường làng Cự Thắng, lấy vợ ở Thục Luyện. Khi bị phát hiện, người đàn bà độc ác ấy bỏ trốn về xã Giáp Lai. Công an huyện do ông Đinh Liên Đàm chỉ huy đã truy tìm bắt về huyện. Trước công an điều tra, mụ đã thú nhận làm chài sắt hại anh thanh niên nọ. Song mụ chỉ biết chài theo gia truyền chứ không biết cách giải, trong khi bệnh tình của anh thanh niên Mường ngày càng nguy kịch. Một ông già Mường ở Cự Thắng, thấy vậy, yêu cầu lãnh đạo huyện và xã viết cam kết không bắt ông đi cải tạo, ông sẽ chữa chài trước mắt mọi người. Ông Hiền kể: “Tôi thấy ông già bưng ra một chậu thau nước lã, một cái chày, một dùi gỗ. Viết bùa, thắp hương, đọc thần chú xong, ông dán bùa vào chày gỗ rồi để vào bụng anh thanh niên nọ, vung dùi đập đánh “bốp” một cái. Anh kia kêu hét lên, hai tay ôm ngực. Ông già lại để chày lên ngực, đập tiếp một phát. Anh kia lại hét, giơ tay ôm cổ. Khi ông già đập vào cổ, anh thanh niên ngã vật xuống. Một cái đinh mười phân bọc trong mảnh vải váy đàn bà, cuộn bên ngoài bằng chỉ ngũ sắc, bật ra khỏi mồm. Vài hôm sau, lại đi nương đi rẫy.

Đêm ấy, mãi 12 giờ đêm, tôi mới đi ngủ. Phần vì mệt, phần vì khuya, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Bỗng nghe tiếng “phì, phì” như tiếng rắn hổ mang phun ở ngay trên đầu, tôi choàng tỉnh giấc, he hé mắt nhìn. Trong ánh đèn dầu leo lét, tôi thấy bóng hai người đàn ông chụm đầu vào nhau. Tiếng Mường lầm rầm như từ cõi âm ty vọng đến. Căng mắt nhìn, tôi nhận ra ông Nhẽo và một người đàn ông lạ mặt. Anh kia đến xin nèm. Tiễn khách ra cửa, ông Nhẽo trở vào. Tần ngần một lát, ông cúi xuống thu gọn túi xách, giấy bút, máy ảnh, máy ghi âm… tôi vứt tanh bành lúc tối. Cả bộ quần áo ướt sũng mồ hôi và nước suối tôi lội hồi chiều. Tay vuốt vuốt vào ống quần tôi, ông khẽ khàng treo lên mắc. Tôi nằm im, nín thở. Một ý nghĩ kinh hoàng chợt đến: ông Nhẽo đang nèm tôi. Thì vừa nãy, ông chẳng khoe có những 10 vợ, 18 người con, gần 40 đứa cháu là gì? Lại khen tôi đẹp giai, đức độ, ăn nói có duyên… Cớ gì ông không nèm tôi cho một cô cháu gái nào đó? Tóc tôi dựng ngược. Tim tôi nghẹn lại. Mắt tôi thao láo. Sáng hôm sau, ngồi bỏm bẻm nhai bánh rán, uống nước chè tươi với ông, tôi mới bật cười. Đúng là “thần hồn nát thần tính”.

Trên đường trở lại thị trấn Thanh Sơn, tôi rẽ vào Tân Phú thăm anh Hoàng Bá Tân để hỏi về phép thuật nèm chữa bệnh mà anh đã đi báo cáo ở Hội nghị y học dân tộc tỉnh Phú Thọ. Rất tiếc, anh Tân đi vắng. Song bù lại, tôi lại được tiếp kiến ông cụ thân sinh ra anh, ông Hoàng Bá Huân, nổi tiếng về làm nèm. Ông Huân năm nay bước sang tuổi 76 nhưng còn tráng kiện, sung sức lắm. Vợ ông ít hơn vài ba tuổi, trông dáng người, nước da, chắc xưa cũng phải là cô gái Mường xinh đẹp. Tôi hỏi ông Huân: “Bác gái đẹp thế, ngày xưa, bác có phải dùng nèm mới lấy được không?”. Ông Huân cười xua tay: “Không! Làng Mường có nhiều người biết nèm thì khó dùng trò ma ấy. Lộ chuyện ra sẽ bị nhà cô gái đánh cho vỡ mặt”. Bà Huân xởi lởi: “Tôi thích ông ấy thì lấy làm chồng thôi chứ chẳng phải ai chài nèm gì đâu”.

Rồi bà kể chuyện hồi trước, nhiều đoàn công nhân đến ở đây bị người Mường nèm trêu nấu cơm không chín, nấu nước không sôi. Mọi bài nèm đều đọc bằng tiếng Mường. Riêng bài nèm này lại nói bằng tiếng Kinh. Nguyên văn như sau: “Mày làm đồng hay mày làm đáy. Tao xó xáy cho mày không lên hơi. Mày lên hơi thì tao chém. úm ta ha khất”. Muốn cho cơm chín thì niệm thần chú: “Mày làm đồng hay mày làm đáy. Tao xó xáy cho mày lên hơi. Mày không lên hơi thì tao chém. úm ta ha khất”. Bà Huân giảng giải: “Người ta nín hơi đọc thần chú rồi phì hơi ra mảnh đóm, vờ vào bếp xin lửa nhưng khua khoắng mảnh đóm quanh nồi và dưới chôn nồi. Lửa dẫu có đốt đùng đùng cơm cũng chẳng chín được”. Tôi ngỏ ý muốn xem ông bà biểu diễn. Ông Huân cười: “Thôi, để hôm nào bác biểu diễn cho anh xem bài nèm ráo ướt. Khi ở trên bờ niệm thần chú thì người chống bè, bơi thuyền chốc chốc lại ngã ùm xuống sông, làm cho quần áo vừa ráo lại ướt ngay”.

Rồi ông hào hứng kể chuyện làm nèm để bó lại một số cặp vợ chồng khỏi bị tan vỡ. Ông kể chi tiết chuyện anh Khê ở Tân Phú đã có với vợ những 4 mặt con. Tí tởn thế nào lại cưới thêm cô vợ lẽ, suốt ngày òm ọp đánh chửi vợ con. Cụ Bằng ở xóm thấy thế đến nhờ ông Huân “bó” lại cho gia đình họ đoàn tụ. Hẹn một ngày anh em nhà ấy ăn uống họp gia đình để lựa lời khuyên nhủ, chị dâu anh Khê kín đáo giấu 3 đôi đũa của vợ cả, vợ hai và của anh Khê vừa ăn xong không rửa đưa cho ông đem về bó nèm. Ông còn kể chuyện bó nèm cho vợ chồng anh Dũng ở xóm Mịn. Nghe xong, tôi hỏi: “Cháu sẽ viết báo nêu tên thật của họ, liệu có bị kiện không?” Ông Huân cười xoà: “Cả làng biết đấy, kiện gì. Hơn nữa, bác làm phúc đức cho gia đình họ. Bây giờ trong ấm ngoài êm, hiểu ra, họ chỉ biết ơn bác thôi”. Bà Huân vội nói chen vào, giọng lo lắng: “à! Suýt nữa thì quên. Hôm trước đến đám ma nhà anh Thọ. Bà Xuân gọi tôi ra nói nhỏ là về nhờ ông, nếu “nèm tơm thăm” hay “nèm bó đũa” thì làm ơn cởi giúp kẻo một người chết thì cả nhà chết theo”. Ông Huân bảo: “Không sao. Nhà bà Xuân, mẹ anh Huy ở xóm Quyết Tiến, tôi nèm bằng muối không sợ nguy hiểmnhư bó đũa, tơm thăm nên không phải cởi”. Nói đoạn, ông liền bảo Thuỷ, cậu con út vào buồng mở hòm lấy ra bó đũa cho tôi xem. Đây là 2 đôi của vợ chồnganh Dũng nhờ ông nèm hồi năm ngoái. Bốn cái đũa được bó bằng hai mối buộc chỉ đỏ và chỉ trắng.

Ông Huân giải thích: “Muốn nèm bó đũa phải dùng hai loại chỉ khác màu bó chặt đôi đũa ăn cơm của những người đang “ông chẳng bà chuộc”. Bó đũa ấy phải đem về nhà mình cất kỹ. Sau 3 năm khi vợ chồng đã khăng khít, phải đem bó đũa đó ra niệm thần chú bài “ké nèm” (giải) rồi tháo chỉ cho đũa rời ra. Có như thế thì một người chết, người kia sẽ không hề hấn gì”. Còn “nèm tơm thăm” là lấy được mảnh áo hoặc quần của 2 người đã mặc, niệm thần chú vào rồi cất kỹ. Đây là cách nèm khá bền chặt nhưng cũng khá nguy hiểm. Lời bài chú rất dài, người khoẻ, đọc một hơi mới hết. Khi vợ chồng đã gắn bó, để tránh nguy hiểm, phải nèm cởi ra. Đọc lời chú bài ké nèm, hà hơi vào 2 mảnh vải, đem ra sông, suối, chỗ nước quẩn, rồi thả một mảnh ở dòng nước chảy xuôi, một mảnh ở dòng nước chảy ngược. Hai mảnh vải cuốn đi hai nơi sẽ không còn nguy hiểm cho người bị nèm.

Cần sự lý giải về một hiện tượng tâm linh của văn hoá Mường

Trở lại với nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, người đã có hàng chục công trình nghiên cứu về văn hoá Mường Thanh Sơn. Trao đổi với chúng tôi tại tư thất ở Khu tập thể Di Lâu, thành phố Việt Trì về vấn đề: có hay không sự linh nghiệm của phép thuật nèm chài, nhà văn khẳng định: “Chài nèm là có thật”. Theo “Cổ sử Việt Nam” của Đào Duy Anh thì Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều phép thuật, quyền năng, phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương. Xứ Mường Thanh Sơn, đất bản bộ của Vua Hùng còn in đậm phong tục tập quán, lễ nghi tín ngưỡng, chế độ thổ tù lang đạo, ruộng đất nhà lang…, đặc biệt, những truyền thuyết dân gian về vua Hùng, về Thánh Tản Viên còn rất nhiều.

Pháp thuật thần bí của người Lạc Việt mà sử sách thời Trang Vương bên Tàu gọi là phương thuật hay Việt phương nay còn sót lại ở xứ Mường chính là nèm chài, bùa mê ngải lú… Cách đây bốn năm, trong hội nghị giữa nhóm các nhà khoa học của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia với Sở văn hoá Phú Thọ bàn về vấn đề “nghiên cứu văn hoá Mường Phú Thọ”, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn đã tha thiết đề nghị cần nghiên cứu sớm phương thuật của người Mường để làm sáng tỏ bức màn tâm linh kỳ bí này song rất tiếc, cho đến nay, vẫn chưa ai đoái hoài tới. Riêng tôi, lặn ngụp mấy ngày ở xứ Mường Thanh Sơn để viết phóng sự này, không có ý tuyên truyền về những điều nhảm nhí, mê tín dị đoan… mà đơn giản chỉ là kể một cách trung thực những điều mắt thấy tai nghe đang lưu truyền trong dân gian để các nhà khoa học và bạn đọc tham khảo. Chuyện thuật nèm chài linh nghiệm đến đâu, cần phải tiếp tục nghiên cứu, đối chứng, tìm hiểu trong thực tế…

Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận